NHÓM THUỐC : TẠI SAO PHẢI PHÂN THUỐC THÀNH NHÓM ?

0 Bình luận

Đối với thuốc nói chung, để dễ dàng tham khảo tài liệu, khảo sát trong việc nghiên cứu và nhất là chọn dùng thuốc trong điều trị, người ta phân loại chúng thành các nhóm thuốc. Lấy thí dụ thuốc là kháng sinh, hiện nay có rất nhiều kháng sinh được dùng trong điều trị. Để dễ khảo sát, chọn lựa trong điều trị, dựa vào cấu trúc hóa học có phần giống nhau hoặc dựa vào cơ chế tác động (tức tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển vi khuẩn theo cách nào đó), người ta phân thành các nhóm kháng sinh. Các nhóm này có tên chung, thí dụ nhóm penicillin, nhóm Cephalosporin... Nhóm có tên penicillin vì kháng sinh đầu tiên của nhóm được ly trích từ một loài vi nấm có tên là Penicillinum notatum. Nhóm cephalosporin cũng thế, kháng sinh đầu tiên được ly trích từ Сephalosportит асrетопiит. Đa số thuốc là hóa dược tổng hợp và thường được dựa vào cấu trúc hóa học tương tự để phân nhóm. Thí dụ thuốc kháng histamine ở thụ thể H, dùng trị dị ứng được phân thành các nhóm như: nhóm dẫn chất phenothiazin (bao gồm các thuốc có nhân hóa học chung là phenothiazin chỉ khác chút ít nhóm thế gắn vào nhân, đó là promethazin tức Phénergan, alimemazin tức Théralène), nhóm dẫn chất ethanolamin (bao gồm diphenhydramin, dimenhydrinat, clemastin...). Còn với kháng sinh có nhóm tetracylin, nhóm macrolid... Vì như nhóm tetracycline(tetracycline, doxycyclin...) có cấu trúchóahọcchung là tetracycline, nhóm macrolid (erythromycin, clarithromycin...) có cấu trúc macrolid. Một cách phân loại cũng thường dùng là chia các thuốc thành các nhóm theo thế hệ. Như các kháng sinh nhóm cephalosporin lại được phân thành nhóm nhỏ hơn là các cephalosporin thế hệ thứ 1, thứ 2, thứ 3, nay đã có thế hệ thứ 4. Việc phân loại thuốc theo thế hệ dựa vào thời gian thuốc ra đời và các lợi điểm so với thế hệ cũ. Thuốc thuộc thế hệ ra đời sau có nhiều ưu điểm so với thế hệ trước. Thí dụ, thuốc kháng histamine ở thụ thể H, được chia theo thế hệ như sau: - Thế hệ 1: còn gọi là thuốc kháng histamine cổ điển, bao gồm thuốc ra đời đầu tiên từ năm 1939 đến thuốc những năm 1970, như promethazin, alimemazin, clorpheniramin... Thuốc cổ điển có 2 bất lợi: gây buồn ngủ và thời gian tác dụng ngắn, phải dùng nhiều lần trong ngày. - Thế hệ 2: gồm những thuốc xuất hiện từ năm 1980 như: cetirizin, astemizol, terfenadin, loratidin... Thuốc thế hệ mới khắc phục 2 bất lợi của thế hệ 1: thuốc không xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương nên không gây buồn ngủ, thuốc có thời gian bán thải dài nên chỉ cần uống 1-2 lần trong ngày thay vì3-4 lần.
Trong thời gian gần đây, có 2 thuốc thuộc thế hệ thứ 2 là terfenadin (Seldane) và astemizol (Hismanal) đã bị cấm lưu hành ở nhiều nước trong đó có nước ta, do có thể gây rối loạn nhịp tim, đặc biệt khi phối hợp với thuốc kháng sinh (nhóm macrolid) và kháng nấm (ketoconazol). Vì vậy, hiện nay có những thuốc kháng histamine mới được một số tác giả cho là thuộc thế hệ thứ 3. Đó là những thuốc gọi là đồng dạng (isomer) hoặc chất chuyển hóa (metabolite, tức sản phẩm chuyển hóa trong cơ thể ta sau khi dùng thuốc) của một số thuốc thuộc thế hệ 2 như fexofenadin là chất chuyển hóa của terfernadin, tecasmizollà chất chuyển hóa của astemizol. Do là chất chuyển hóa nên thuốc thuộc thế hệ 3 được cho là không gây buồn ngủ như thuốc thế hệ 2 và đặc biệt không gây biến cố tim mạch như thuốc “cha mẹ” thuộc thế hệ trước nó. Việc phân loại nhóm thuốc có mấy điều lợi như sau. Do thị trường dược phẩm hiện nay quá rộng lớn (có thể xem như rừng thuốc), ta không thể nào nhớ hết từng món thuốc. Tuy nhiên, nếu biết được một thuốc nằm trong nhóm thuốc nào, biết tính chất chung của nhóm thuốc đó, ta có thể suy ra tính chất của một thuốc cụ thể để lựa chọn trong sử dụng. Thí dụ, ta biết ofloxacin nằm trong nhóm kháng sinh fluoroquinolon và fluoroquinolon có tác dụng phụ có hại chung là làm mòn sụn khớp ở súc vật thí nghiệm còn non nên có chống chỉ định đối với trẻ em. Vì vậy, ta biết không chỉ có ofloxacin mà các kháng sinh khác nằm trong nhóm fluoroquinolon sẽ cùng tuân thủ chống chỉ định đó. Hoặc biết được thuốc kháng sinh cephalosporin như cefotaxim, ceftriaxon thuộc thế hệ 3 có nhiều ưu điểm so với cephalosporin thế hệ 1,2 nhưng thuộc loại thuốc dự trữ chỉ dùng khi thật cần thiết, cho nên chỉ được dùng trong bệnh viện với sự chỉ định của bác sĩ, chứ không thể dùng tùy tiện. Nếu các thuốc thuộc loại dự trữ dùng tùy tiện bị đề kháng, không có thuốc thay thế thì đó là thảm họa.
Các nhà điều trị, dựa vào kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm chữa bệnh, thường có sẵn một số thuốc “đầu tay” (lựa chọn đầu tiên) trong chọn sử dụng. Sau khi khám, chẩn đoán bệnh, bác sĩ sẽ chọn một thuốc “đầu tay” trong một nhóm thuốc cụ thể để chỉ định dùng cho người bệnh trong một thời gian nào đó và hẹn ngày tái khám (thí dụ cho thuốc 3-5 ngày và hẹn người bệnh trở lại tái khám), rõ ràng việc tái khám này rất cần thiết. Khi tái khám, bác sĩ sẽ khám xem tiến triển bệnh như thế nào. Nếu bệnh cải thiện, người bệnh không bị tác dụng phụ có hại nghiêm trọng, bác sĩ có thể cho tiếp tục dùng thuốc đã chọn. Nhưng nếu bệnh không cải thiện hoặc người bệnh bị tác dụng phụ đến độ không tiếp tục dùng được thuốc, bác sĩ sẽ chọn chỉ định một thuốc khác thuộc nhóm thuốc khác hoặc thuốc thế hệ mới hơn để thay thế thuốc cũ cho người bệnh. Do thuộc nhóm có cấu trúc thuốc khác hoặc thuốc thế hệ mới có ưu điểm hơn thuốc mới được chọn sẽ cho tác dụng điều trị tốt hơn hoặc không gây tác dụng phụ có hại giống như thuốc đã chọn chỉ định lần trước. Ta thấy, trong điều trị bệnh có khi bệnh nhân phải tái khám nhiều lần là vì vậy.

Unknown

Some say he’s half man half fish, others say he’s more of a seventy/thirty split. Either way he’s a fishy bastard.

0 comments: