HỢP TÁC DÙNG THUỐC : KHÔNG PHẢI CHUYỆN NHỎ

0 Bình luận

Tốt nhất khi bị bệnh, người ta sẽ đi khám bệnh để được bác sĩ khám, chẩn đoán xác định bệnh, ghi đơn thuốc và sau đó người bệnh sẽ dùng đúng các loại thuốc đã được chỉ định trong đơn hầu được chữa khỏi bệnh. Tuy nhiên, những điều vừa nêu thường khôngxảy ra trọn vẹn, đặc biệt ở giai đoạn sau cùng, người bệnh vì nhiều lí do bỏ ngang việc dùng thuốc, thuốc không dùng đúng thời gian của liệu trình để bệnh không được chữa khỏi. Có những bệnh có thể phải dùng thuốc lâu dài, thậm chí suốt đời (như bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, động kinh...) nếu người bệnh bỏ ngang việc dùng thuốc sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến bản thân người bệnh. Nhưng cũng có những bệnh nếu bỏ ngang, không dùng thuốc đúng liệu trình, hậu quả xấu không chỉ xảy ra cho người bệnh mà còn gây nguy hại rất lớn cho sức khỏe cộng đồng. Như việc chữa trị lao không đúng cách, không dùng thuốc theo đúng thời gian của phác đồ điều trị điều trị có thể đưa đến hiện tượng “lao đa kháng thuốc” (nhiều thuốc kháng lao không còn hiệu quả) và nay là “lao siêu kháng thuốc” (là loại mà thuốc kháng lao dự trữ dùng sau cùng vẫn không có tác dụng) rất nguy hiểm. Vấn đề người bệnh không chịu phối hợp dùng thuốc theo đúng phác đồ điều trị ngày càng trở nên nghiêm trọng đến độ vào năm 2003, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố tình trạng người bệnh không hợp tác, bỏ ngang việc dùng thuốc đã trở thành mối quan ngại toàn cầu cho sức khỏe cộng đồng. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tỉ lệ không hợp tác dùng thuốc trị các bệnh mạn tính có dao động từ 20 đến 80% và WHO chấp nhận tỷ lệ trung bình là 50% (tức có khoảng một nửa số người trên toàn thế giới đang điều trị một bệnh kinh niên đã bỏ ngang việc dùng thuốc!). Hiện nay các nhày dược gọi tên của việc bệnh nhân chấp nhận dùng thuốc theo đúng liệu trình của phác đồ điều trị là “hợp tác dùng thuốc” (pharmacoadherence) thay vì trước đây gọi là “tuân thủ dùng thuốc” hay nói gọn hơn là “tuân trị” (complicance). Nếu dùng câu chữ “hợp tác dùng thuốc” sẽ cho thấy sự bình đẳng giữa bệnh nhân và thầy thuốc, bệnh nhân chịu dùng thuốc là vì lợi ích của cả đôi bên (lợi ích của bệnh nhân là được chữa khỏi bệnh, còn lợi ích của thầy thuốc là thực hiện nghề nghiệp cao quý của mình chữa khỏi bệnh). Còn nói “tuân trị” là đặt vị trí của người bệnh thấp hơn, người bệnh vì sợ thầy thuốc mà chấp nhận vâng lời dùng thuốc theo đúng chỉ định của ông ta. Một một số nhà y dược học đã định nghĩa “hợp tác dùng thuốc” (HTDT) là sự cộng tác của người bệnh trong việc thực hiện chế độ điều trị bằng thuốc do thầy thuốc chỉ định mà Sự cộng tác này dựa trên mối tin cậy thân thiết của người bệnh. Có nhiều yếu tố làm cho HTDT không tốt, trong đó có mối liên hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc, vì vậy, định nghĩa nhấn mạnh Sự tin cậy thân thiết của bệnh nhân đối với thầy thuốc đảm nhận Việc chữa bệnh.
Thực trạng của HTDT hiện nay không sáng sủa có lắm vấn đề, cho nên WHO kêu gọi các nhà chuyên môn y dược đề xuất các chiến lược cần thiết cải thiện HTDT trên phạm vi toàn cầu. Nhiều công trình nghiên cứu đã được các nhà y dược thực hiện ở nhiều nước nhằm đánh giá thực trạng HTDTvà đề ra các biện pháp can thiệp hữu hiệu. Các nhà khoa học nhất trí cho rằng để người bệnh HTDT tốt, họ cần được giúp đỡ 3 việc sau:
1.    Tiếp cận dễ dàng và thuận lợi với thuốc men:
 Người bệnh rất dễ bỏ cuộc không tiếp tục dùng thuốc nếu thuốc mua với chế độ dùng thuốc quá phức tạp (như dùng quá nhiều lần trong ngày, có thuốc phải dùng đến 5 lần/ngày) hoặc không tiện dụng (dùng dạng tiêm chích thay vì uống) làm người bệnh hoặc ngưng điều trị hoặc thay đổi cách dùng không còn hiệu quả. Điều đáng quan tâm hơn hết là giá thuốc. Ở nước ta, báo chí thường xuyên nêu vấn đề tăng giá thuốc bất hợp lý bởi vì xét cho cùng, giá thuốc không ổn định sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến HTDT. Đối với các nước đang phát triển như nước ta còn đòi hỏi sự tiếp tay của xã hội hỗ trợ những bệnh nhân vì nghèo không có khả năng chi trả tiền thuốc. Không phải vì y học bó tay mà chỉ do không có tiền chi trả tiền thuốc, người bệnh đành chịu mạng sống mất đi do bệnh tật không được chữa trị.
2.    Tăng cường sự hiểu biết của người bệnh về tình trạng bệnh và chế độ điều trị bằng thuốc:
 Người bệnh cần biết rõ những điều cơ bản về bệnh của họ và về thuốc, để hiểu vì sao phải dùng thuốc, thuốc sẽ cho tác dụng như thế nào đối với bệnh, phải uống thuốc bao nhiêu lần trong ngày và cần bao nhiêu loại thuốc để chữa khỏi bệnh, khi dùng thuốc có thể bị các tác dụng phụ nào hay không.
3.    Hình thành và củng cố động cơ hợp tác dùng thuốc ở người bệnh:
Tức là phải tạo được niềm tin ở người bệnh muốn chữa bệnh dứt khoát phải hợp tác với thầy thuốc dùng đúng và đủ thuốc. Ở đây rất cần đến mối quan hệ tốt đẹp giữa người bệnh và các thành viên trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, đó là bác sĩ điều trị, dược sĩ cấp và tư vấn dùng thuốc, điều dưỡng chăm sóc bệnh hằng ngày. Phải tạo niềm tin như thế nào mà người bệnh thấy việc nhớ dùng thuốc là mệnh lệnh từ trái tim của mình, gắn việc dùng thuốc vào sinh hoạthằng ngày và duy trìviệc dùng thuốc dù sinh hoạt hằng ngày có thay đổi (như người bệnh đái tháo đường duy trì tốt việc dùng thuốc kiểm soát đường huyết khi đi du lịch cũng giống như ở nhà).
Các nhà khoa học cũnh nhất trí để thúc đẩy HTDT tốt, cần thực hiện phối hợp các biện pháp can thiệp sau:
- Biện pháp kỹ thuật: Bác sĩ điều trị khi chỉ định thuốc hoặc dược sĩ khi cấp thuốc nên lựa chọn thuốc mà chế độ dùng thuốc thuận tiện hơn, như dùng dạng thuốc lỏng (sirô, hỗn dịch...) cho trẻ em, dùng dạng thuốc phóng thích kéo dài dùng 1 lần thay vì3-4 lần trong ngày đối với người cần dùng thuốc lâu dài (thậm chí có thuốc trị loãng xương dùng 1 lần trong ngày cũng còn có sự bất tiện nay nên thay bằng thuốc chỉ cần dùng 1 lần trong tuần).
 - Biện pháp truyền thông - giáo dục: Trước hết, chính các bác sĩ, dược sĩ là người thích hợp nhất giúp bệnh nâng cao hiểu biết về bệnh tật và thuốc men chữa trị có liên quan. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy HTDT của người bệnh tốt hơn rất nhiều khi nhà điều trị không kiệm lời, chịu khó nói năng với lời lẽ chân tình giúp người bệnh hiểu rõ về bệnh tình để từ đó có sự tin cậy về chế độ dùng thuốc. Người tacũng ghi nhận vai trò rất lớn của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó các báo chí, về việc nâng cao kiến thức để người bệnh hợp tác tốt việc dùng thuốc.
Ngoài hai biện pháp chủ yếu trên, các nhà khoa học còn nêu thêm một số biện pháp khác để thúc đẩy và cải thiện HTDT. Như dùng biện pháp giúp thay đổi thái độ (thật ra cũng giống như biện pháp kỹ thuật nêu ở trên, như dùng thiết bịbáo tín hiệu hoặc dùng điện thoại báo giờ uống thuốc để giúp người bệnh nhớ giờ dùng thuốc). Hoặc dùng biện pháp gây ảnh hưởng lên tình cảm của người bệnh (như nhờ sự hỗ trợ của những người cùng nhiễm HIV/AIDS gọi là đồng đẳng để giúp HTDT trong điều trị căn bệnh thế kỷ này).
Tất cả những biện pháp cải thiện nêu trên đều nhằm đến trung tâm điểm là người bệnh để cải thiện HTDT. Nhưng việc thực hiện thành công hay thất bại là tùy thuộc vào các nhà chuyên môn y dược, đặc biệt có cả các nhà quản lý của ngành y tế. Chính họ sẽ khơi mở giúp cho HTDT ngày càng được cải thiện hơn để người bệnh được chữa trị bằng thuốc tốt nhất. Thực tế cho thấy hiện nay đối với nhiều ngườibệnh, HTDTlà khái niệm hoàn toàn xa lạ.

Unknown

Some say he’s half man half fish, others say he’s more of a seventy/thirty split. Either way he’s a fishy bastard.

0 comments: